Chùa Thiên Mụ là ngôi cổ tự cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía Tây. Đây là ngôi chùa được chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1525-1613) khởi lập sớm ở miền Trung Việt Nam, ẩn chứa nhiều câu chuyện lịch sử đầy bí ẩn. Đầu xuân năm mới, chùa Thiên Mụ luôn là một điểm linh thiêng thu hút khách thập phương vãn cảnh chùa xưa, cầu bình an.

Vùng đất cố đô Huế xinh đẹp và yên bình là nơi có nhiều di tích và đền chùa nổi tiếng của Việt Nam. Nằm bên bờ sông Hương uốn lượn duyên dáng, chùa Thiên Mụ tự hào với lối kiến trúc cổ kính hòa quyện với khung cảnh an bình, xanh mát của thiên nhiên tuyệt đẹp nơi đây, đã là nguồn cảm hứng cho biết bao thi ca, nhạc họa.
“Đò Kim Long vẫn đưa,
Dốc Nam Giao vẫn chờ.
Chùa Thiên Mụ vẫn đợi,
Lời thề xưa ai tha thiết hẹn về”
(Huế và em – Nhật Ngân)
Điểm hành hương lâu đời của đầu xuân năm mới
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng là vị chúa Nguyễn đầu tiên, có công lao to lớn trong việc xây dựng, phát triển miền Trung Việt Nam. Tương truyền rằng chúa Nguyễn Hoàng đi thuyền rồng nhìn thấy đồi Hà Khê, ở tả ngạn dòng sông Hương là một dải đất cao như hình con rồng ngoảnh đầu trông lại, phía trước trông ra sông nước mênh mông, phía sau liền với hồ nước, phong cảnh tốt đẹp, chúa Nguyễn Hoàng mới dừng chân nghỉ và hỏi người dân. Chúa được các bô lão địa phương cho biết trên núi này, ban đêm thường có một bà lão tóc bạc phơ mặc áo đỏ quần xanh nói vọng rằng “Đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi để vương triều vững mạnh thì nên lập chùa thờ Phật, thỉnh cầu linh khí để tạo phúc cho muôn dân”. Ngạc nhiên, bất ngờ chuyển thành thích thú và vui sướng, chúa cho dựng lên một ngôi chùa để trấn giữ long mạch, chùa được xây dựng và hoàn thành vào năm 1601, đặt tên là Thiên Mụ tự (Thiên là trời, Mụ có nghĩa là bà cụ).
Từ đó, chùa Thiên Mụ trở thành trung tâm Phật giáo lớn của cả vùng, là nơi chúa Nguyễn Hoàng hay thăm viếng, cúng dường. Sử cũ ghi lại rằng “Năm Quý Mão, niên hiệu Hoằng Định thứ 4 [1603] mùa hạ, tháng tư, Đoan vương Nguyễn Hoàng lại sai thỉnh nhà sư trụ trì chùa Thiên Mụ đứng ra mở hội Đại Pháp, đọc kinh thượng thặng, giảng Pháp thượng thặng cứu độ cho chúng sinh ba đường sáu lối, cầu siêu cho bảy tổ chín huyền được vẹn thành chính giác. Trong ngày hội ấy, thần dân thiên hạ kéo đến xem hội rất đông, ai nấy đều tấm tắc ngợi khen, cho là khá sánh với hội lớn Vô già. Mọi bề công đức hoàn thành, lòng chúa Đoan vương hết mực thư thái. Từ đó vương rộng mở việc thi hành nhiều việc chính sự giáo hóa, ơn chăm trăm họ, bề tôi thán phục vui lòng, các nước láng giềng đều đến thăm, thiên hạ xưng tụng cho là bậc vua sáng ở đời thái bình”.
Những thăng trầm thời gian
Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), Phật giáo phát triển mạnh ở miền Trung Việt Nam, ngôi chùa lại được trùng tu, tôn tạo khang trang hơn. Ông đã đích thân cho khắc bia ký lên một tấm bia lớn để kỷ niệm những công trình được xây dựng tại đây. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá bằng đá cẩm thạch đồ sộ, biểu tượng của sự trường thọ, trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp. Chùa Nguyễn Phúc Chu còn cho người sang Trung Quốc mua hơn 1.000 bộ kinh Phật về cất giữ trên lầu Tàng Kinh, tán dương triết lý của đạo Phật.
Vào năm 1844, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” [thọ 80 tuổi] của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị, vua Thiệu Trị cho xây tòa tháp 7 tầng trước Nghi Môn chùa Thiên Mụ và đặt là Từ Nhân Tháp. Đến tháng 7 năm 1845, sau khi tòa bảo tháp này được xây xong, nhà vua Thiệu Trị tiếp tục đổi tên thành tháp Phước Duyên. Tháp Phước Duyên trở thành biểu tượng của chùa Thiên Mụ cổ kính, uy nghiêm. Tòa tháp hình bát giác có 7 tầng, cao 21m và mỗi tầng có thờ một vị Phật khác nhau, trên cùng có một pho tượng bằng vàng.
Đi sâu hơn vào khuôn viên chùa, bạn sẽ nhìn thấy khu vực cung điện Đại Hùng là thánh địa chính của chùa. Không gian chánh điện luôn chìm trong không khí tĩnh mịch trang nghiêm. Qua nhiều đợt tu sửa lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến trúc như tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm… Chùa Thiên Mụ ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quý giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả về nghệ thuật như chiếc chiêng đồng đúc năm 1677, bức hoành phi bằng gỗ mạ vàng có khắc chữ “Linh thứ cao phong” [đỉnh núi cao Linh Thứ – điển tích truyền bá giáo lý nhà Phật] của chúa Nguyễn Phúc Chu tạo tác năm 1714.
Chùa Thiên Mụ còn gắn với nhiều biến cố của lịch sử cách mạng Việt Nam. Bên trong tháp Thiên Mụ có một chiếc xe cổ được người dân gìn giữ cẩn thận. Quý Phật tử phương xa hay du khách thập phương xin dành chút thời gian chiêm ngưỡng chiếc xe Austin Westminster từng rước tiễn đưa Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm ngày 11.6.1963. Hòa thượng mất đi nhưng để lại một trái tim xá lợi bất diệt, trở thành vị Bồ tát trường tồn trong lòng của người dân Việt Nam.